Tại lễ kỷ niệm 50 năm Công ước Bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (Công ước 1972) tại Ninh Bình, Tổng Giám đốc UNESCO Audrey Azoulay đã ghi nhận vai trò, đóng góp và trách nhiệm của Việt Nam với cộng đồng quốc tế nhằm tôn vinh, phát huy giá trị của Công ước. Tổng Giám đốc UNESCO cũng ghi nhận Nhìn chung, sau 50 năm thực thi Công ước Bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới năm 1972, Việt Nam đã và đang hòa chung dòng chảy với thế giới trong 1.tên quốc gia 2.thời gian xuất hiện 3.địa bàn xã hội 4.thuận lợi,khó khăn 5.kinh tế * phương tây cổ đại: 1.tên quốc gia 2.thời gian xuất hiện 3.địa bàn xã hội 4.thuận lợi,khó khăn 5.kinh tế Tìm hiểu tình hình chính trị và bộ máy nhà nước trong giai đoạn đất nước bị chia cắt? Có thể xem tiểu thuyết "Nỗi buồn chiến tranh" của nhà văn Bảo Ninh - một thành tựu đặc sắc của văn học thời kỳ đổi mới ở mảng đề tài viết về chiến tranh sau chiến tranh, là một ví dụ. Mời các bạn đón đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của tác giả Bảo Ninh. (*) Tây du ký được dịch ra tiếng Việt với hai bản dịch thành công nhất là: 1/ Bản dịch của Thụy Đình do Chu Thiên hiệu đính, NXB Phổ thông Hà Nội, 1960; NXB Văn học tái bản năm 1997; 2/ Bản dịch của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, do Lương Duy Thứ giới thiệu, chia Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd Nợ Xấu. Kể từ thuở khai thiên lập địa, con người đã không ngừng quan sát bầu trời để nắm bắt các quy luật tự nhiên rồi vận dụng vào cuộc sống lao động hằng ngày. Kiến thức về vũ trụ của con người cho đến này đã đạt trình độ nhất định và ngày càng mở rộng. Đó là nhờ rất nhiều nỗ lực nghiên cứu của các nhà thiên văn học trong lịch sử. Hôm nay, hãy cùng chúng tớ “điểm danh” 10 tên tuổi lỗi lạc nhất trong ngành Thiên văn từ trước tới nay nhé! 1. Charles Messier Ông là một nhà thiên văn nổi tiếng người Pháp, từng bị ám ảnh bởi việc phát hiện, nghiên cứu sao chổi và quỹ đạo của chúng. Tuy nhiên, công việc nghiên cứu sao chổi là rất khó nên ông đi đến quyết định lập ra danh mục các thiên thể trong vũ trụ. Danh mục này đã giúp đỡ ông và những người săn sao chổi phân biệt được các thiên thể thường trực những ngôi sao và thiên thể di chuyển thoáng qua sao chổi khi quan sát bằng mắt thường. Charles Messier có niềm đam mê rất lớn đối với sao chổi. Danh mục kết quả được xuất bản năm 1774 khi nhà thiên văn học 44 tuổi, đã khám phá hơn 100 thiên thể hiện này vẫn gọi là các thiên thể Messier, bao gồm cả những tinh vân và thiên hà. Cùng với việc liệt kê danh mục này, Messier cũng thành công trong việc phát hiện ra sao chổi thứ mười ba. 2. Ptolemy Danh nhân Ai Cập cổ gốc Hy Lạp Ptolemy sống vào năm 90 đến 168 sau Công nguyên, là nhà thiên văn học lớn cuối cùng trước khi Thế giới chuyển sang giai đoạn Dark Ages thời kỳ không có thành tựu lớn về khoa học. Với hiểu biết sâu rộng về thiên văn học, địa lý, toán học, các phát hiện của ông đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của Khoa học ngày nay. Có thể nói, Ptolemy là người đặt nền tảng cho rất nhiều nghiên cứu thiên văn học sau này của nhân loại. Các quan điểm của ông về cấu trúc Thế giới đã làm nền tảng cho thuyết địa tâm trong nhiều thế kỷ, một học thuyết mà đến đời Nicolaus Copernicus mới bị đánh đổ. Ptolemy cũng là tác giả của sơ đồ chuyển động các thiên thể. Dựa vào sơ đồ của ông, con người có thể biết được vị trí các hành tinh trong Hệ Mặt Trời, vị trí các ngôi sao cũng như thời gian diễn ra Nhật thực, Nguyệt thực... Nếu không nhờ sự nghiên cứu và những tiến bộ của ông trong lĩnh vực thiên văn học thì phần lớn thành tựu thiên văn trong thời kỳ Phục hưng và cách mạng khoa học khó mà đạt được. 3. Tycho Brahe Tycho Brahe 1546 -1601 là nhà thiên văn học, chiêm tinh học người Đan Mạch, được coi là cha đẻ môn thiên văn quan sát trước khi có kính viễn vọng. Ngày 11/11/1572, Tycho Brahe khám phá ra một ngôi sao mới trong chòm sao Cassiopeia có độ sáng bằng sao Kim. Tycho Brahe gọi nó là "nova, nova" sao mới, sao mới. Ngày nay, người ta gọi loại sao đó là supernova siêu tân tinh loại 1. Vào thời mà Tycho sống, người ta cho rằng các loại sao kể trên nằm trong bầu khí quyển của Trái Đất nhưng ông bác bỏ quan điểm đó. Năm 1573, Tycho Brahe xuất bản một quyển sách mang tên De nova stella các tân tinh và cũng từ đó, “nova” được dùng để chỉ một ngôi sao đột nhiên sáng chói lên. Xuyên suốt thời gian quan sát của mình, Tycho Brahe tìm ra ngôi sao mới thuộc chòm sao Cassiopeia nổi tiếng. Tycho Brahe thực hiện việc quan sát thiên văn rất tỉ mỉ. Ông thường cẩn thận giữ gìn các dữ liệu quan sát của mình nên được các đồng nghiệp đương thời coi là một nhà quan sát thiên văn chính xác nhất thời đó. Công trình chính của Tycho Brahe là phát hiện ra sao chổi C/1577 V1. Căn cứ trên các quan sát của mình, Tycho Brahe đã chứng minh nó không nằm trong bầu khí quyển của Trái Đất như quan niệm thời đó. Nó vẽ ra một quỹ đạo ê-lip quanh Mặt Trời, phía bên kia Mặt Trăng, cắt các quỹ đạo của các hành tinh khác. 4. Arno Allan Penzias và Robert Wilson Hai nhân vật tiếp theo của chúng ta là bộ đôi nhà vật lý Arno Allan Penzias và Robert Wilson. Tuy nhiên, họ vẫn được vinh danh trong danh sách này nhờ những đóng góp to lớn của mình. Arno Allan Penzias làm việc cùng Robert Woodrow Wilson ở trung tâm nghiên cứu Bell Labs tại New Jersey với máy thu vi sóng cryogen ở nhiệt độ siêu thấp khoảng 123 độ K có độ nhạy cao dùng cho quan sát thiên văn vô tuyến. Năm 1964, hai ông phát hiện sóng nhiễu tần số cao mà không thể giải thích nguồn gốc. Sóng nhiễu đó mang năng lượng rất thấp so với bức xạ xuất phát từ Ngân Hà. Không những thế, nó còn có cùng tính chất ở tất cả các hướng. Penzias và Wilson cho rằng dụng cụ làm việc của mình có lẽ đã bị nhiễu do một nguồn phát sóng nào đó trên Trái Đất. Cặp bài trùng Arno Allan Penzias và Robert Wilson. Sau khi đã loại trừ tất cả các khả năng gây nhiễu khác, họ công bố khám phá của mình. Về sau, nguồn sóng nhiễu này được xác định là bức xạ tự nhiên của nền vũ trụ, được hình thành từ vụ nổ Big Bang và tồn tại như bức xạ tàn dư. Khám phá này đã khẳng định lý thuyết về Big Bang, làm thay đổi nhiều giả thuyết về sự hình thành vũ trụ. Penzias và Wilson nhận giải Henry Draper Medal năm 1977 và sau đó một năm là Giải Nobel vật lý. 5. Nicolaus Copernicus Nicolaus Copernicus 19/2/1473 – 24/5/1543 là nhà thiên văn học đã nêu ra hình thức hiện đại đầu tiên của thuyết nhật tâm Mặt Trời ở trung tâm trong cuốn sách mang tính mở đầu một kỷ nguyên của mình. Trong đó, ông đề cập về sự chuyển động quay của các thiên thể. Copernicus là một trong những học giả có hiểu biết về nhiều phương diện ở thời mình. Ông là một nhà toán học, thiên văn học, luật gia, nhà tâm lý học, học giả kinh điển, nhà cai trị, viên chức hành chính, nhà ngoại giao, nhà kinh tế, và cả một người lính. Trong số những khả năng của mình, ông đã lựa chọn thiên văn học làm nghề nghiệp chính. Lúc còn sống, Nicolaus Copernicus được coi là kẻ báng bổ khi đưa ra thuyết nhật tâm, ngược lại với những điều giáo huấn của Nhà thờ. Vào thời kỳ đó, Nhà thờ là cơ quan nắm hầu hết các quyền lực trong mọi hoạt động xã hội, bao gồm cả việc giáo dục Sự phát triển thuyết nhật tâm Mặt Trời ở trung tâm chứ không phải Trái Đất của ông được coi là giả thuyết khoa học quan trọng nhất trong lịch sử. Nó đánh dấu bước chuyển tiếp sang thiên văn học hiện đại và sau đó là khoa học hiện đại. Điều này đã khuyến khích các nhà thiên văn trẻ, các nhà khoa học và các học giả có thái độ đúng mực hơn với những giáo điều đã tồn tại từ trước. *Những thành tựu khoa học tự nhiên của Ai Cập cổ đạiCơ sở hình thành Bầu trời Ai Cập quanh năm trời quang mây tạnh do vậy dễ quan sát. Mực nước lên xuống của sông Nile, có hai mùa nước dâng hạ. Nhu cầu về nông nghiệp, xây dựng các công trình kiến trúc, đo đạc ruộng đất, tính toán thuế khoá. Nhu cầu về tôn giáo, những người phục vụ cho tôn giáo thường quan sát bầu trời để đưa ra lễ, luật cúng học Toán học Ai Cập ra đời từ rất sớm, bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và thực tế cuộc sống của người Ai Cập, phát triển khá mạnh mẽ trong ba lĩnh vực số học, đại số và hình học. Do nhu cầu thực tiễn, nhu cầu của sản xuất nông nghiệp, tính toán vật liệu xây dựng các công trình kiến trúc, đo đạc,… là những nguyên nhân thúc đẩy toán học ra đời. Thiên niên kỷ III trước Công nguyên xuất hiện từng bước quan niệm trừu tượng về các con niên kỷ II trước Công nguyên phát triển thành công hệ đếm, nhưng vẫn chưa sáng tạo ra số 0, cho nên khi đếm đến 10, họ đã lấy một đoạn dây thừng để ghi nhớ, đến 1000 thì vẽ cái cây Hệ số thập phân cơ số 10, chưa có số 0, biết làm các phép cộng và trừ, còn nhân và chia thì thựchiện bằng cách cộng và trừ liên số giải phương trình bậc nhất, tìm ra cấp số cộng và cấp số nhânHình học Tính diện tích hình vuông, chữ nhật, hình thang, tam giác, tứ giác, diện tích hình cầu,... Tính được số π = 3,16 và bước đầu biết đến tính chất đồng dạng Biết tính thể tích của hình lăng trụ, lập phương…Số học Thành tựu đầu tiên là phép đếm theo cơ số 10, các chữ số cũng được dùng chữ tượnghình để biểu thị và chưa tìm ra con số 0. Biết tính cộng trừ, nhưng phép nhân và chia được hiểulà công trừ liên tiếp Biết căn cứ khả năng nhân đôi của một số . Căn cứ khả năng lấy 2/3 của mộtsố. Thiên văn học Để nắm vững được thời tiết và khai thác nguồn thuỷ lợi của sông Nile phục vụ cho canh tác nôngnghiệp, ở Ai Cập đã sớm ra đời Thiên văn học và lịch pháp. Với những dụng cụ hết sức thô sơ như sợi dây dọi, mảnh ván có khe hở, ngồi trên nóc các đền miếu để quan sát bầu trời cả ngày lẫn đêm, theo dõi sự lên xuống của mực nước sông Nile . Thông qua đó họ cũng xác định được bản đồ của 12 cung hoàng đạo có từ thời Vương triều XIV,vẽ được chòm sao Bắc cực và biết đến hành tinh trong Thái Dương hệ. Đặc biệt để có thể xác định thời gian ban ngày, người Ai Cập đã sáng tạo được cái để đo thời gian ban ngày gọi là Nhật Khuê, giúp người Ai Cập biết được thời gian chính xác biết được các hành tinh khác như Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Sớm phát hiện ra các chòm sao, soạn ra bản đồ các thiên thể, nó được vẽ lên trần của các đền đài cổ. Việc tính toán vị trí các ngôi sao trên trời và việc phát minh ra đồng hồ mặt trời, đồng hồ nước là những thành tựu quan trọng ở thời Tân vương quốc. Tuy nhiên, nó cũng có hạn chế khi trong thời gian ban đêm và trờimưa không có nắng vì vậy vào ban đêm họ sử dụng dụng cụ để đo thời gian gọi là đồng hồ Các con thú trên hoàng đạo theo thiên văn học Hy Lạp cổ đại, viện bảo tàng Louvre. Kế thừa những thành tựu của thiên văn học Lưỡng Hà, người Hy Lạp cổ đại đã có bước phát triển quan trọng trong lý thuyết và phương pháp tính toán để đưa thiên văn học tiến một bước dài. Những gì mà họ tạo ra sau này đã được người Ả Rập và châu Âu tiếp tục sử dụng. Vào buổi sơ khai, người Ai Cập cổ đại quan niệm vũ trụ được mặt đất chia thành hai phần, phần trên là bầu trời sáng láng còn phía dưới là địa ngục tối tăm. Ban ngày Thần Mặt trời cưỡi cỗ xe rực lửa chạy khắp bầu trời và ban đêm bơi trên một cái chén vàng theo đại dương bao quanh mặt đất. Sự kiện thiên văn[sửa] Vào thế kỷ 6 TCN, Thales khoảng 624 TCN – khoảng 546 TCN đã dự báo chính xác nhật thực xảy ra vào ngày 28 tháng 5 năm 585 TCN khi quan sát nhật thực lớn vào 18 tháng 5 năm 603 TCN, một tiến bộ quan trọng lúc đó. Ông chứng tỏ rằng các ngôi sao phát sáng nhờ ánh sáng của mình, trong khi Mặt Trăng được chiếu sáng nhờ ánh sáng Mặt Trời. Theo Thales, mặt đất là một chiếc ván phẳng bơi trên mặt nước. Học trò của ông - Anaximander khoảng 611 TCN – khoảng 546 TCN đã đưa ra một mô hình vũ trụ theo thuyết địa tâm đầu tiên trong lịch sử thiên văn học. Theo đó Trái Đất là trung tâm và bao quanh bởi ba vòng cầu lửa, vòng gần Trái Đất nhất có nhiều lỗ thủng nhỏ chính là những ngôi sao, vòng xa hơn có một lỗ thủng lớn - Mặt Trăng và vòng xa nhất có một lỗ thủng lớn nhất - Mặt Trời. Đó là một bước phát triển quan trọng bởi trước ông, những nghiên cứu thiên văn học chỉ dựa trên quan sát chứ không phải suy luận. Không những thế ông còn tìm cách giải thích nguồn gốc của vũ trụ cái không giới hạn Apeiron là khởi đầu của tồn tại; vũ trụ sinh ra, trưởng thành rồi chết đi và lại sinh ra theo vòng tuần hoàn. Nhà triết học Pythagoras khoảng 580 TCN – khoảng 500 TCN cũng cho rằng Trái Đất là một quả cầu nằm tại trung tâm vũ trụ và phát hiện ra rằng sao Hôm và sao Mai chỉ là một hành tinh. Sau đó Anaxagoras 500 TCN – 428 TCN đưa ra mô hình vũ trụ là một quả bóng hình cầu đang nở ra với Trái Đất là trung tâm. Ông cho rằng, Mặt Trời là một tảng đá nóng bỏng lớn hơn bán đảo Peloponnésos. Democritus khoảng 460 TCN – khoảng 370 TCN đưa ra ý niệm có vô số thế giới tồn tại trong vũ trụ vô cùng vô tận và được cấu thành bởi vô vàn các hạt nguyên tử. Nhà triết học Philolaus 470 TCN – mất? coi Trái Đất là một trong những ngôi sao và chuyển động vòng tròn quanh một tâm điểm gây ra ngày và đêm. Vũ trụ của ông quay xung quanh một "ngọn lửa thần thánh" và gồm có bầu trời, các hành tinh, sau chúng là Mặt Trời, dưới Mặt Trời là Mặt Trăng, dưới Mặt Trăng là Trái Đất và Đối Trái Đất Antichtone giả thuyết nằm ẩn mặt phía sau ngọn lửa thần thánh. Philolaus cho rằng, Trái Đất quay quanh trục của mình. Nhà triết học Plato s. khoảng 428 TCN- 423 TCN; mất khoảng 348 TCN- 347 TCN trong tác phẩm Triết học tự nhiên Timaeus của mình đã cho rằng vũ trụ là do Đấng Sáng Tạo tạo ra bởi một hỗn hợp gồm hai bản thể bản thể tinh thần không thể phân chia và bản thể vật chất có thể phân chia. Vũ trụ phân thành 7 vòng với khoảng cách không đều nhau có tâm là Trái Đất. Khoảng cách tương đối từ Trái Đất đến quỹ đạo của các thiên thể theo tỷ lệ gấp đôi hoặc gấp ba, tỷ lệ mà theo ông các vòm cầu của vũ trụ đạt được sự hài hòa. Đến thế kỷ 4 TCN, nền khoa học nói chung và thiên văn học nói riêng của Hy Lạp đã đạt đến trình độ chuyển từ suy luận chung sang nghiên cứu một cách cụ thể và có hệ thống các hiện tượng tự nhiên. Eudoxus khoảng 408 TCN - khoảng 347 TCN, người cùng thời với Plato đã có những đóng góp tiêu biểu cho khuynh hướng này. Ngoài việc vẽ được hình chiếu của chí tuyến trời và vòng Cực Bắc lên bề mặt Trái Đất cũng như đưa ra tỷ lệ giữa khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng và Mặt Trời, ông đã xây dựng giả thuyết về chuyển động của các hành tinh, còn gọi là giả thuyết về các hình cầu đồng tâm. Đây là mô hình có tính chất hình học đầu tiên về chuyển động của các hành tinh. Lý thuyết của ông cho rằng chuyển động biểu kiến của các hành tinh là tổng của các chuyển động xoay tròn đồng mức. Chuyển động của mỗi hành tinh là một tổ hợp của một số vòm cầu lồng vào nhau, các cực của mỗi vòm được xếp liên tiếp chồng lên nhau. Để mô tả chuyển động của Mặt Trăng, Mặt Trời, cần 3 vòm cầu, cái thứ nhất mô tả chuyển động quay quanh trục của nó; cái thứ hai mô tả các tiết điểm giao điểm của hoàng đạo và đường đi của Mặt Trăng trên hoàng đới; cái thứ ba có trục hơi nghiêng so với các cực của vòm cầu thứ hai mô tả độ lệch góc của quỹ đạo so với mặt phẳng hoàng đạo. Các hành tinh có chuyển động biểu kiến phức tạp hơn thì cần tới 4 vòm cầu và hệ thống của ông có tổng cộng 27 vòm cầu. Sau đó Callippus khoảng 370 TCN - khoảng 300 TCN đưa thêm vào 6 vòm cầu nữa thành 33 và Aristotle tăng số lượng của chúng lên 55. Aristotle 384 TCN - 322 TCN cũng cho rằng chuyển động hướng tâm và ly tâm là chuyển động tự nhiên còn những chuyển động khác phải có lực tác động vào. Sở dĩ các thiên thể chuyển động được là do "sức đẩy nguyên thủy" có tính chất thần thánh, nằm ngoài không gian và thời gian. Lý thuyết về vũ trụ của ông có ảnh hưởng sâu sắc đến các học giả thời Trung Cổ và họ đã điều chỉnh nó cho phù hợp với giáo lý Ki - tô. Được hậu thuẫn bởi giới chức tôn giáo, mô hình của Aristotle đã tồn tại nhiều thế kỷ, và thật không may mắn, điều này đã kìm hãm sự phát triển của khoa học bởi lẽ rất ít người dám thách thức quyền lực của nhà thờ. Dùng phương pháp đo góc, Eratosthenes 276 TCN - 194 TCN đã tính toán được đường kính Trái Đất. Mặc dù độ chính xác của con số này là chủ đề tranh luận của các học giả nhưng chắc chắn rằng nó ở mức cao, thậm chí tuyệt vời. Mô hình vũ trụ của Ptolemy. Sau khi La Mã xâm chiếm Hy Lạp, các nhà thiên văn học người Hy Lạp vẫn tiếp tục hành trình khám phá của mình. Ngoài việc dùng phương pháp đo góc để tính toán khoảng cách tương đối từ Trái Đất đến Mặt Trăng và Mặt Trời, Aristarchus 310 TCN - khoảng 230 TCN còn là người đầu tiên trình bày một cách rõ ràng và có hệ thống về thuyết nhật tâm. Theo đó, Mặt Trăng quay quanh Trái Đất, Trái Đất quay quanh trục của nó và các hành tinh quay quanh Mặt Trời. Hipparchus khoảng 190 TCN - khoảng 120 TCN cũng có những đóng góp quan trọng. Ngoài việc xác định hoàng vĩ và hoàng kinh kinh độ và vĩ độ theo hệ tọa độ hoàng đạo của 850 ngôi sao, ông đã đưa ra ý niệm về cấp sao biểu kiến. Ông cũng là người khám phá ra hiện tượng tuế sai trong chuyển động của các hành tinh, tính toán độ dài của một năm, khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trăng với độ chính xác cao. Sử dụng thành tựu của những người đi trước, Ptolemy khoảng 100 - khoảng 178 đã tiếp tục xây dựng, phát triển lý thuyết về chuyển động biểu kiến của hành tinh. Ông đã sáng chế ra những dụng cụ đo góc để quan sát các vì sao như thước xích cầu, thước ngắm tam giác... và bổ sung vào danh mục các vì sao của Hipparchus đưa tổng số lên đến 1022. Mô hình vũ trụ của ông lấy Trái Đất làm trung tâm, các thiên thể chuyển động quanh đó. Các hành tinh không quanh quanh Trái Đất mà chuyển động đều trên các vòng tròn phụ gọi là ngoại luân và tâm của các ngoại luân mới mới chuyển động đều quanh Trái Đất theo vòng tròn lớn gọi là bản luân. Mô hình của Ptolemy đã được chấp nhận rộng rãi cho đến tận thời Phục Hưng khi Nicolaus Copernicus khẳng định Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời. Ngoài các công trình nghiên cứu thiên văn được tập hợp thành bộ sách đồ sộ Almagest, ông còn để lại những chỉ dẫn về chiêm tinh học trong tác phẩm Tetrabiblos.

thành tựu của thiên văn học