Xem 10+ thể thơ nói với con được đánh giá cao Góc truyện tranh Bach Le • August 25, 2022 Globalizethis tổng hợp và liệt ra những thể thơ nói với con dưới đây hi vọng sẽ giúp các bạn có thêm những sự lựa chọn phù hợp và có thêm những thông tin bổ ích nhất
Riêng về thể thơ, Nói với con được viết bằng một thứ thơ không gò bó, độ dài ngắn của từng câu thơ không đều nhau. Thể thơ tự do này thích hợp với phong cách trò chuyện hằng ngày, phù hợp với một lối tư duy bình dị, hồn nhiên không cần đến sự cầu kì, đẽo gọt.
Bài thơ "Nói với con" thể hiện tình yêu thương và ước nguyện tha thiết của các bậc cha mẹ, mong các con nối tiếp xứng đáng và phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương. B. Thân bài: - Con lớn lên trong tình yêu thương, nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống cần lao
Nói về việc phân tầng điều trị bệnh SXH, bác sĩ Hải Đường cho biết tại khoa chỉ tiếp nhận ca nặng và rất nặng, trong đó 50% bệnh nhân cần hỗ trợ hô hấp và điều trị chuyên sâu. Việc phân tầng điều trị sẽ có chức năng, giới hạn, nhiệm vụ riêng của từng tầng. Hiện Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP
Có thể nói, bài thơ "Nói với con" là một trong những bài thơ hay nhất về tình phụ tử thiêng liêng và cao cả trên thế giới. nó giống như chất tạo men, càng ủ lâu càng ngọt, thấm càng lâu. tình cảm gia đình là tình cảm vô cùng cao quý, thiêng liêng song hành với tình yêu
Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd Nợ Xấu.
Bài thơ Nói với con đi vào lòng người đọc bởi một thứ tình cảm gần gũi nhưng thiêng liêng và cao quý tình cha con. Đó là tâm sự của một người cha dành cho con, là những điều mà cha muốn thổ lộ cho con nghe, con quát chung về bài thơ Nói với conHoàn cảnh sáng tácBài thơ “Nói với con” được nhà thơ Y Phương viết ở thời kì sau năm 1975, đất nước đã hòa bình, thống nhất nhưng vô cùng khó khăn, thiếu cục của bài thơMượn lời nói với con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, gợi về sức sống mạnh mẽ, bề bỉ của quê hương mình. Bài thơ chia làm hai đoạnĐoạn 1 từ đầu đến “Ngày đầu tiên đẹp nhất trê đời” Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động nên thơ của quê 2 phần còn lại Lòng tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm mong ước con hãy kế tục xứng đáng truyền thống thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên lẽ điểm nội dung, nghệ thuậtBài thơ Nói với con thể hiện tình cảm thắm thiết của cha mẹ với con cái, tình yêu quê hương sâu nặng. niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của dân tộc mình, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc thơ viết theo thể thơ tự do, linh hoạt trong diễn đạt mà vẫn giàu vần điệu; mang hình thức là lời tâm tình, dặn dò của người cha với con, tạo nên giọng điệu thiết tha, trìu mến, ấm áp và tin cậy; bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên, khiến lời dặn dò, tâm tình dễ mến, dễ thuyết phục; hình ảnh thơ cụ thể mà có tính khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ, mang đậm bản sắc thơ ca miền hướng tiếp cận bài thơĐoạn 1 Tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc của quê hương với thơ là lời một người cha miền núi nói với con. Lời đầu tiên cha nói với con là lời gợi nhắc về cội nguồn sinh dưỡng thiên liêng của mỗi con người, đó là gia đình và quê hương. Bốn câu thơ đầu như bộc lộ tứ bình xinh xắn về một gia đình hạnh phúc, gợi lên hình ảnh, không khí gia đình thật dầm ấm, quấn quit. Em bé đang lẫm chẫm tập đi, đang bi bô tập nói, lúc sà vào long mẹ, lúc níu tay cha. Con lớn lên trong yêu thương, trong sự nâng đón, mong chờ của cha mẹ. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, chở che, nâng đỡ, mừng vui đón nhận. Hình ảnh thơ ở đây thật cụ thể, gợi cảm mà giàu ý nghĩa khái quát, biểu tượngChân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cườiNhững câu thơ tiếp theo gợi về cội nguồn lớn rộng hơn đã nuôi dưỡng con, đó là quê hương. Từ trong gia đình, lớn dần lên, con sẽ cảm nhận được nguồn mạnh ấy. Đó là quê hương với những con người lao động mà cuộc sống thật nghĩa tình và thơ mộng. Người cha gợi nhắc cho con với một niềm tự hào và tình yêu chứa chanNgười đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con người cho những tấm lòng“Người đồng mình” – cách nói thật giản dị, ấm áp – chỉ người vùng mình, miền mình, những người cùng sống trong miền đất, quê hương, cùng dân tộc. Những câu thơ mở đầu bằng cụm từ “người đồng mình” đứng chốt ở bốn trọng điểm như những luyến láy, điệp cú, điệp khúc làm cho âm điệu, nhạc điệu thơ ngân vang, dào dạt, vừa nhấn mạnh ý, vương vấn tâm hồn bao bang khuâng man mác về nơi chon rau cắt rốn nặng nghĩa nặng tình. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của “người đồng mình” được gợi lên qua những hình ảnh cụ thể mà giàu sức gợi cảm. Đan lờ đánh cá dưới bàn tay của người đồng mình đã thành nan hoa, vách nhà không chỉ được xen kẽ bằng gỗ mà bằng câu hát, bằng vẻ đẹp tâm hồn – hay chính là con người nơi đây đã tạo dựng ngôi nhà, cuộc sống của mình bằng chiều sâu của văn hóa, lối động từ “cài”, “ken” vừa diễn tả động tác, miêu tả cụ thể, vừa nói lên tình gắn bó, quấn quit. Con người nơi đây yêu lao động, yêu cái đẹp, biết làm đẹp cho cuộc sống. Còn rừng núi quê hương thì thật thơ mộng và nghĩa tình. Rừng không chỉ cho gỗ cho măng mà còn cho hoa. Con đường thì cho những tấm long nhân hậu bao dung. Đó là con đường đi vào làng vào bản, đi vào thung vào rừng, đường ra sông ra suối, con đường đi học, con đường làm ăn, đường đi tới mọi chân trời góc biển, những con đường đã nâng gót những đứa con yêu. Thiên nhiên ấy ban tặng cái đẹp cho con người và chở che, nuôi cưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống “Rừng cho hoa – Con đường cho những tấm lòng”. Cách nói mộc mạc, giản dị gợi liên tưởng sâu 2 Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước của người cha qua lời tâm tình với conQua việc ca ngợi những đức tính cao đẹp của người đồng mình, người cha gợi cho con long tự hào về quê hương, dân tộc, dặn dò con cần kế tục, phát huy một cách xứng đáng truyền thống của quê thơ điệp lại “Người đồng mình thương lắm con ơi” chỉ khác chữ “thương” như một điệp khúc vang lên đầy yêu thương, tự hào, mà như lời nhắc nhở thiết tha, đồng thời mở ra một ý mớiNgười đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như song như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc“Người đồng mình” không chỉ cần cù, khéo léo, tình nghĩa, tài hoa, yêu đời mà còn có bao phẩm chất tốt đẹp đáng “thương lắm con ơi”. Trải qua bao gian nan thử thách, bao niềm vui nỗi buồn, bà con quê mình đã rèn luyện, đã hun đúc ý chí, đã “Cao đo nỗi buồn – Xa nuôi chí lớn”, nâng cao tâm thế đẹp. Hai câu thơ bốn chữ cô đúc, đăng đối như tục ngữ, đúc kết một thái độ, một phương châm ứng xử cao quí. “Người đồng mình” sống vất vả mà mạnh mẽ, khoáng đạt, bền bỉ gắn bó với quê hương dẫu còn cực nhọc, đói giả lấy những từ ngữ, hình ảnh diễn tả khoảng cách không gian cao, xa, như song, như suối, lên thác xuống ghềnh để nói lên tâm hồn và chí hướng mạnh mẽ, phóng khoáng; lấy những hình ảnh “đá gập ghềnh”, “lên thác xuống ghềnh” để nói về cuộc sống còn nghèo đói, nhọc nhằn. Điệp từ “sống” và nhịp thơ luôn chảy, mạnh mẽ gợi lên sức sống mãnh liệt, bền bỉ của con người trước cuộc sống nhiều gian truân, vất vả. Những đứa con của đá, sống trên đá thật bền gan vững chí. “Người đồng mình” đầy nghị lực và lạc quan để vươn lên, vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt và vẫn đầy long yêu mến, tự hào về quê đó, người cha mong con phải có nghĩa tình chung thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua gian nan, thử thách bằng ý chí, nghị lực, niềm tin. Quê hương sau những năm dài chiến tranh còn cơ cực, đói nghèo, con phải biết gắn bó và san sẻ, không được chê, không được lo, phải sống cao thượng và mãnh liệt “như song như suối”.Mạch tâm tình của người cha vẫn được tiếp nối, lời dặn dò ngày càng sâu lắng, thiết tha và nghiêmNgười đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe Phương vẫn dung lời nói quen thuộc của người miền núi, cách nói cụ thể, giàu hình ảnh mà đầy ẩn nghĩa, mang màu sắc triết lí, suy tư. “Người đồng mình” mộc mạc, giản dị nhưng không tầm thường, nhỏ bé, mà giàu lòng tự trọng, giàu chí khí, niềm tin, giàu có về tâm hồn, và giàu khát vọng xây dựng quê hương. Chính những con người ấy bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại hằng ngày đã làm nên quê hương với truyền thống, với phong tục tập quán tốt đẹp, mang đậm bản sắc văn hóa đó, người cha đã truyền cho con niềm tự hào về vẻ đẹp và sức mạnh của truyền thống quê hương, về phẩm chất của cha anh dân tộc. Và cũng từ đó, người cha nhắc con phải sống xứng đáng với “người đồng mình”, tự tin mà vững bước trên đường đời, sống cao đẹp như cha anh, không cúi đầu trước khó khăn thử thách, không nhỏ bé tầm thường trước thiên hạ để “kê cao quê hương”, làm cho quê hương ngày một phát triển. Lời người cha chứa chan tình cảm trìu mến, thiết tha và niềm tin tưởng. Điều cha tâm tình với con vượt lên tình cảm gia đình, trở thành lời gửi trao thiêng liêng giữa các thế tác giả Y Phương“Những năm cuối bảy mươi, đầu tám mươi của thế kỉ XX, đời sống tinh thần và vật chất cúa nhân dân cả nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng vô cũng khó khan thiếu thốn. Bởi vì đất nước ta vừa rời khỏi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ lâu dài và cực kì gian khổ. Hiện thực xã hội ấy đã tác động sâu sắc đến đời sống con người. Đại bộ phận nhân dân ta vẫn kiên trì khắc phục và tìm mọi cách để vượt qua duy trì cuộc sống. Họ vẫn tồn tại và không ngừng sinh trưởng là không phải nhờ vào phép màu của lực lượng thiên nhiên nào mà chỉ dựa vào sức mạnh tinh thần của truyền thống văn hóa từ ngàn đời ông cha để năm 1975, tôi cũng mới từ mặt trận trở về, sau tám năm đánh giặc xa nhà quay trở về lấy vợ sinh con trong bối cảnh túng thiếu bần hàn chung của toàn xã hội. Nhìn con cầm bát cơm ăn không thịt cá mà long xót đau khôn tả. Bởi chúng tôi cũng như nhiều gia đình cán bộ khác chỉ sống bằng đồng lương quá ít ỏi. Hàng hóa khan hiếm, giá cả leo thang từng ngày đến chóng mặt. Bên cạnh cái tốt của những người làm ăn lương thiện, không ít con người bị tha hóa, biến chất. Họ buôn bán gian lận, lợi dụng kẽ hở của nhà nước móc nối làm ăn phi pháp. Ở miền Nam, một bộ phận nhỏ công chức dưới ngụy quyền Sài Gòn không chịu được đã tìm mọi cách để vượt biên trốn ra nước hiện thực khó khan ngày ấy, tôi làm bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình, đồng thời là để nhắc nhở con cái sau này”.Ý kiến của Nguyễn Trọng Hoàn“Thể thơ tự do, với số câu chữ không theo khuôn định phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt của bài thơ. Nhịp điệu lúc bay bổng, nhẹ nhàng, lúc rành rọt, lúc mạnh mẽ, săc nhọn,… tạo ra sự cộng hưởng hài hòa với những cung bậc tình cảm khác nhau trong lời người cha truyền thấm sang con. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, hình ảnh mộc mạc, cô đọng mà vẫn phong phú, sinh động, quyến Phương thấu hiểu và bởi vậy lột tả được cái hồn cốt trong bản sắc truyền thống của người dân tộc miền núi. Cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế hệ vậy!”.Nguyễn Trọng Hoàn – Đọc hiểu văn bản. Ngữ văn 9, Sdd
GHI NHỚ NHANH THÔNG TIN TÁC GIẢ, TÁC PHẨM “NÓI VỚI CON” Có rất nhiều bạn học sinh trở nên sợ học Văn vì có quá nhiều các tác phẩm văn học với tác giả, thể loại khác nhau. Ngữ pháp thì đa dạng và phong phú. Để khắc phục được tình trạng sợ Văn đó, hôm nay Học văn chị Hiên sẽ chia sẻ tới các thông tin về tác giả, tác phẩm của bài thơ “Nói với con” nhé! I. Thông tin tác giả, tác phẩm 1. Thông tin về tác giả - Y Phương sinh năm 1948 tên thật là Hứa Vĩnh Sước - Quê quán tại Trùng Khánh - tỉnh Cao Bằng , ông là người dân tộc Tày - Sự nghiệp sáng tác + Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại sở văn hóa và thông tin tỉnh Cao Bằng + Năm 1993 ông là chủ tịch hội văn nghệ Cao Bằng + Năm 2007 ông được nhận giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Đây chính là một giải thưởng cao quý rất xứng đáng với những gì Y Phương đã cống hiến cho nền văn học nước nhà. + Các tác phẩm tiêu biểu “Người hoa núi”, “Lời chúc”, “Đàn then”… - Phong cách sáng tác + Thơ của ông thể hiện tâm hồn mạnh mẽ, chân thực và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao. SOẠN VĂN "NÓI VỚI CON" 2. Thông tin về tác phẩm a. Hoàn cảnh sáng tác - Bài thơ “Nói với con” được sáng tác năm 1980, khi đất nước mới hòa bình thống nhất nhưng còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Từ hiện thực ấy, nhà thơ đã sáng tác bài thơ như lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này. b. Thể thơ và phương thức biểu đạt - Thể thơ Tự do - Phương thức biểu đạt Tự sự + Miêu tả + Biểu cảm c. Bố cục Gồm 2 phần - Đoạn 1 Con lớn lên trong tình yêu thương, sự giúp đỡ của cha mẹ , trong cuộc sống lao động của quê hương. - Đoạn 2 Lòng tự hào về sức sống bền bỉ, mạnh mẽ về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm mong ước con sẽ kế tục những truyền thống đáng quý c. Giá trị nội dung bài thơ - Bài thơ “Nói với con” thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống và niềm tự hào về quê hương, dân tộc của mình. Bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc đến tình cảm đẹp đẽ với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống. MỞ BÀI "NÓI VỚI CON" - Y PHƯƠNG SIÊU CHẤT NGỮ VĂN LỚP 9 d. Giá trị nghệ thuật - Bài thơ được viết theo thể thơ tự do phóng khoáng làm cho cảm xúc cụ thể, rõ ràng, giọng điệu thơ trìu mến, thiết tha. Ngôn ngữ thơ cụ thể và hàm súc, nhiều ý nghĩa, hình ảnh thơ độc đáo, sinh động mang đậm bản sắc thơ ca miền núi cũng là những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm. II. Tìm hiểu văn bản 1 Những cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con Từ đầu cho đến “Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời” a Trong những lời tâm tình, tác giả nói với con cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con trước hết là gia đình “ Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười” - Sử dụng hệ thống từ ngữ giàu giá trị tạo hình “ chân phải”, “ chân trái”, “một bước”, “hai bước” gợi cho chúng ta liên tưởng đến những bước chân chập chững đầu tiên của một em bé trong sự vui mừng của cha mẹ. - Thủ pháp liệt kê thứ nhất qua hình ảnh “ tiếng nói”, “ tiếng cười” đã tái hiện được hình ảnh của một em bé đang ở lứa tuổi bi bô tập nói đồng thời gợi đến khung cảnh của một gia đình đầm ấm, hòa thuận luôn tràn đầy niềm vui, hạnh phúc, tràn đầy tiếng nói, tiếng cười. - Thủ pháp liệt kê thứ hai qua hình ảnh “ tới cha”, “ tới mẹ” đã tái hiện hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, lúc thì sà vào lòng mẹ, khi lại níu lấy tay cha, gợi lên ánh mắt như đang dõi theo và vòng tay dang rộng đón đợi của cha mẹ. - Nhịp thơ 2/3 với cáu trúc đối xứng đã tạo nên một âm điệu, không khí vui tươi và gợi đến một mái ấm gia đình hạnh phúc. => Lời thơ giản dị như một lời tâm tình thủ thỉ, Y Phương đã nói với con, gia đình chính là cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con. Vì thế, trên hành trình vạn dặm của cuộc đời, con không được phép quên. b Cùng với gia đình, thì quê hương chính là mạch nguồn không thể thiếu nuôi dưỡng con khôn lớn và trưởng thành “ Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng” - Quê hương được gới thiệu qua lối nói hình ảnh của người vùng cao - “ người đồng mình”. "Người đồng mình" là người vùng mình, người quê hương. Đây là cách nói giản dị, thân thuộc, mộc mạc của người miền núi. - Cách giới thiệu hình ảnh ấy lại đi liền với hô ngữ “ con ơi” khiến lời của cha với con thật trìu mến, thân thương. - Hệ thống hình ảnh giàu sức gợi + “ Đan lờ cài nan hoa” tả thực công cụ lao động còn thô sơ được “người đồng mình” trang trí trở nên đẹp đẽ; gợi đôi bàn tay cần cù, khéo léo, tài hoa và giàu sáng tạo của “người đồng mình”, đã khiến cho những nan nứa, nan tre đơn sơ, thô mộc trở thành “ nan hoa” + “ Vách nhà ken câu hát” đã tả thực lối sinh hoạt văn hóa cộng đồng, khiến cho những vách nhà như được ken dầy trong những câu hát, gợi một thế gới tâm hồn tinh tế và tràn đầy lạc quan của người vùng cao. - Các động từ “cài, ken” vừa miêu tả được động tác khéo léo trong lao động vừa gợi sự gắn bó của những “ người đồng mình” trong cuộc sống lao động. - Thủ pháp nhân hóa + “Rừng cho hoa”, tả thực vẻ đẹp của những rừng hoa mà thiên nhiên, quê hương ban tặng, gợi sự giàu có hào phóng của thiên nhiên, quê hương. + “ Con đường cho những tấm lòng”, gợi liên tưởng đến những con đường trở về nhà, về bản; gợi đến tấm lòng tình cảm của “người đồng mình” với gia đình, quê hương, xứ sở. - Điệp từ “cho” cho thấy tấm lòng rộng mở, hào phóng, sẵn sàng ban tặng tất cả những gì đẹp nhất, tuyệt vời nhất của quê hương, thiên nhiên. => Nếu như gia đình là cội nguồn sinh thành và dưỡng dục con thì quê hương bằng văn hóa lao động đã nuôi dưỡng và chở che cho con thêm khôn lớn, trưởng thành. c Cuối cùng, tác giả tâm sự với con về kỉ niệm êm đềm, hạnh phúc nhất của cha mẹ. Bởi đó cũng là cội nguồn để sinh thành nên con “Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời” - “Nhớ về ngày cưới” là nhớ về kỉ niệm cho sự khởi đầu của một gia đình. Nó là minh chứng cho tình yêu và con chính là kết tinh từ tình yêu ấy. - “ Ngày đầu tiên đẹp nhất” đó có thể là ngày cưới của cha mẹ, nhưng cũng có thể là ngày đầu tiên con chào đời.=> Đoạn thơ là lời dặn dò, nhắn nhủ tâm tình của người cha về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con Gia đình, quê hương chính là những nền tảng cơ bản để tiếp bước cho con khôn lớn, trưởng thành. Bởi vậy, con phải luôn sống bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào. => Đoạn thơ là lời dặn dò, nhắn nhủ tâm tình của người cha về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con Gia đình, quê hương chính là những nền tảng cơ bản để tiếp bước cho con khôn lớn, trưởng thành. Bởi vậy, con phải luôn sống bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào. 2 Những phẩm chất cao quí của người đồng mình và lời khuyên của cha Phần còn lại a Trong lời tâm tình về nguồn cội sinh thành và nuôi dưỡng con , người cha đã khéo léo “đan”, “cài” những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình “Người đồng mình thương lắm con ơi! Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn” - Động từ “ thương” đi liền với từ chỉ mức độ “lắm” để bày tỏ sự đồng cảm với những nỗi vất vả, khó khăn của con người quê hương. - Hệ thống từ ngữ giàu sức gợi qua các tính từ “ cao, xa” gợi liên tưởng đến những dãy núi cao, trùng điệp là nơi cư trú của đồng bào vùng cao. Những tính từ này được sắp xếp theo trình tự tăng tiến, gợi những khó khăn như chồng chất khó khăn để thử thách ý chí con người. - Hệ thống hình ảnh mang tư duy của người miền núi, khi tác giả lấy cao của trời, của núi để đo nỗi buồn, lấy xa của đất để đo ý chí con người. => Câu thơ đượm chút ngậm ngùi, xót xa để diễn tả thực tại đời sống còn nhiều những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào vùng cao. Đồng thời, cũng đầy tự hào trước ý chí, nghị lực vươn lên của họ. Từ phẩm chất của người đồng mình, Y Phương tiếp tục nói với con về ý chí và vẻ đẹp truyền thống của người vùng cao “ Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục” - Nghệ thuật tương phản + “Hình ảnh thô sơ da thịt” đã tả thực vóc dáng, hình hài nhỏ bé của “người đồng mình” + Cụm từ “chẳng mấy ai nhỏ bé” gợi ý chí, nghị lực phi thường, vượt lên hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của “người đồng mình” -> Nghệ thuật tương phản đã làm tôn lên “tầm vóc”, “vóc dáng” của “người đồng mình” họ có thể còn “thô sơ da thịt” nhưng họ không hề yếu đuối. - Hình ảnh “tự đúc đá kê cao quê hương” vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc + Tả thực quá trình dựng nhà, dựng bản của của người vùng cao, được kê trên những tảng đá lớn để tránh mối mọt. + Ẩn dụ cho tinh thần tự lực cánh sinh, họ đã xây dưng và nâng tầm quê hương. - Trong quá trình dựng làng, dựng bản, dựng quê hương ấy, chính họ đã làm nên phong tục, bản sắc riêng cho cộng đồng. => Câu thơ tràn đầy niềm tự hào về nhũng phẩm chất đáng quý của người dồng minh. Từ đó Y Phương nhắn nhủ, răn dạy con phải biết kế thừa, phát huy những vẻ đẹp của con người quê hương. b Lời khuyên của người cha Hãy biết sống theo những truyền thống tốt đẹp của người đồng mình “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá ghập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc” - Điệp từ “sống” được lặp đi lặp lại liên tiếp đã tô đậm được mong ước mãnh liệt của cha dành cho con. - Hình ảnh ẩn dụ và phép liệt kê “đá ghập ghềnh” và “thung nghèo đói” + Gợi không gian sống hiểm trở, khó làm ăn, canh tác + Gợi đến cuộc sống nhiều vất vả, gian khó và đói nghèo => Từ đó, người cha mong muốn ở con hãy biết yêu thương, gắn bó, trân trọng quê hương mình - Hình ảnh so sánh “Sống như sông như suối” + Gợi về cuộc sống bình dị, hồn nhiên, gắn bó với thiên nhiên. + Gợi lối sống trong sáng, phóng khoáng, dào dạt tình cảm như sông như suối. => Từ đó, người cha mong muốn ở con một tâm hồn trong sáng, phóng khoáng như thiên nhiên. - Thủ pháp đối “lên thác”> Đoạn thơ là lời khuyên của cha, khuyên con hãy tiếp nối cái tình cảm ân nghĩa, thủy chung với mảnh đất mà mình sinh ra. Hãy tiếp nối cả ý chí can đảm, lòng kiên cường của người đồng mình. Khép lại bài thơ, là lời dặn dò vừa ân cần, trìu mến vừa nghiêm khắc của người cha “Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bào giờ được nhỏ bé Nghe con” - Hai tiếng “lên đường”, cho thấy người con đã khôn lớn, trưởng thành, có thể tự tin, vững bước trên đường đời. - Hình ảnh thơ được lặp lại “thô sơ da thịt” như là lời khẳng định để khắc sâu trong tâm trí con, rằng con cũng là người đòng mình, cũng mang hình hài, vóc dáng nhỏ bé - Nhưng con “không bao giờ được nhỏ bé” mà phải kiên cường, bản lĩnh để đương đầu với những gập ghềnh, gian khó của cuộc đời. - Hai tiếng “nghe con” nghe thật thiết tha, ân cần, xúc đọng, ẩn chứa biết bao mong muốn của người cha.=> Với giọng điệu thiết tha, tâm tình, trìu mến, người cha đã gửi gắm cho con bài học quý giá, để trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời con mãi mãi khắc ghi. Mong rằng những thông tin về tác giả, tác phẩm của bài thơ “Nói với con” trên đây sẽ giúp các em dễ dàng hơn trong quá trình học tập và đạt thành tích cao nhé. Để hiểu hơn về toàn bộ các tác giả cùng kiến thức tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 9 và nhiều thông tin bổ ích khác nữa hãy nhanh sở hữu bộ "Sổ tay văn học" nhé! Xem bản đọc thử Tại đây Cập nhật thêm những bài viết hay tại các kênh truyền thông của HVCH Fanpage Học văn chị Hiên Youtube Học văn chị Hiên - Youtube IG Học văn chị Hiên Tiktok Học văn chị Hiên Chúc các bạn nhỏ luôn học tốt! Học văn chị Hiên - Hơn cả một bài văn
Nhằm mục đích giúp học sinh lớp 9 nắm chắc kiến thức môn Ngữ văn lớp 9 để chuẩn bị tốt cho kì thi tuyển sinh sắp tới, HOCMAI đã tổng hợp phân tích toàn bộ khái quát các tác phẩm văn học ôn thi vào lớp 10. Trong bài viết này, cùng phân tích chi tiết tác phẩm Nói với con của tác giả Y Phương 1. Tác giả Y Phương – Tên thật Hứa Vĩnh Sước – Sinh năm 1948, mất ngày năm 2022 – Quê quán tại làng Hiếu Lễ, xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng ông là người dân tộc Tày – Ông là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu thuộc lớp các nhà thơ xuất thân từ dân tộc miền núi – Y Phương có niềm đam mê dành cho văn chương từ rất sớm, ham mê đọc sách ngay từ nhỏ – Ngoài ra, Y Phương đã trải qua cuộc đời người lính đặc công từ năm 1968 và con đường đến với thơ ca của ông cũng rất tình cờ và ngẫu nhiên Cảm hứng trong sáng tác và phong cách nghệ thuật – Y Phương luôn đi tìm cái mới, cái độc đáo trong những sáng tác của mình, tuy nhiên vẫn giữ cho mình khuôn phép riêng, ngay cả trong đời sống thực. – Người đọc có thể dễ dàng tìm thấy ở Y Phương một tiếng nói chung, đồng cảm, bởi lẽ cuộc sống đời thường và trong thơ của ông chính là một – Các tác phẩm thơ của Y Phương được lấy chất liệu chủ yếu từ gia đình, quê hương và đất nước – Phong cách sáng tác Ngôn ngữ thơ gần gũi, giản dị, hồn nhiên, mang đặc trưng lối tư duy của người vùng cao. Hình ảnh thơ được tác giả vận dụng phong phú, mang giá trị biểu tượng cao;… – Văn chương nghệ thuật với Y Phương có thể coi là một trò chơi ngôn ngữ nhằm thỏa mãn cho chính bản thân nhà thơ và cho người đọc Các tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Y Phương Người của núi” 1982; Tháng Giêng – tháng Giêng một vòng dao quắm 2009; Nói với con 1980; Người núi Hoa 1982; Tiếng hát tháng giêng 1986; Lời chúc 1991; Thất tàng lồm Ngược gió, 2006; Hoa quả chuông Bjooc ăn lình; Đò trăng trường ca,… 2. Tác phẩm Nói với con a. Hoàn cảnh ra đời “Nói với con” – Bài thơ được in trong tập thơ “Thơ Việt Nam” – Bài thơ “Nói với con” được sáng tác vào năm 1980, 5 năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là giai đoạn mà đời sống của nhân dân nói chung gặp rất nhiều khó khăn, cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong tâm sự của Y Phương, ông từng nói rằng “Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn… Bài thơ là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng.” – Ngoài là lời tâm sự với con, tác phẩm còn là lời tâm sự với chính mình. Y phương giải thích lý do để ông ra sáng tác bài thơ chính là khi ông không biết lấy gì để vịn, để tin. Khi cả xã hội lúc bấy giờ đều đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Vì vậy, muốn sống đàng hoàng như một con người, cần phải bám vào nền tảng văn hóa, tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của văn hóa. Qua bài thơ ấy, Y Phương muốn gửi thông điệp rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ ấy bằng văn hóa.” Bài thơ đối với Y Phương như một lời tâm sự với chính mình, mục đích là để động viên bản thân, đồng thời để lại lời nhắc nhở cho các thế hệ mai sau. b. Ý nghĩa nhan đề “Nói với con” Nhan đề “Nói với con” ngắn gọn, nhưng đã khái quát lên nội dung chính của bài thơ đó là lời trò chuyện, tâm sự của người cha với đứa con của mình. Qua đó, tác giả muốn nhắn nhủ tới thế hệ sau cần tiếp nối, phát huy và gìn giữ truyền thống tốt đẹp của quê hương, đất nước. Nhắc nhở con nhìn vào cội nguồn mà sống sao cho xứng đáng c. Bố cục nội dung Bố cục bài thơ được chia thành 2 phần với nội dung cụ thể như sau – Phần một – Đoạn 1 Nhắc nhở về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con – Phần hai – Đoạn 2 Đề cao những phẩm chất cao quý của người đồng mình và mong con tiếp nối truyền thống cao đẹp đó II. Phân tích bài thơ Nói với con 1. Phân tích khổ thơ đầu bài Nói với con Nhắc nhở về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con “Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.” Trong những lời tâm tình đầu tiên, tác giả đã nhắc về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con “Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười.” – Sử dụng hệ thống từ ngữ giàu giá trị tạo hình như “chân phải”, “chân trái”, “một bước”, “hai bước” tác giả đã giúp người đọc liên tưởng đến hình ảnh một đứa trẻ đang tập đi những bước chân chập chững đầu tiên trong sự vui mừng, hân hoan của cha mẹ Sử dụng thủ pháp liệt kê lần đầu qua hình ảnh “tiếng nói”, “tiếng cười” góp phần – Liên tưởng đến hình ảnh em bé đang ở tuổi bi bô tập nói, tập cười – Tạo ra không khí đầm ấm của một gia đình hòa thuận, luôn tràn ngập hạnh phúc, tràn đầy tiếng nói, tiếng cười Sử dụng thủ pháp liệt kê lần hai qua hình ảnh “tới cha”, “tới mẹ” đã giúp tác giả – Tái hiện hình ảnh em bé sà vào lòng mẹ, níu lấy tay cha khi đang chập chững tập đi – Thể hiện tình cảm của cha mẹ, luôn dõi ánh mắt theo con và luôn dang rộng vòng tay đón đợi con bước đến – Sử dụng nhịp thơ 2/3 với cấu trúc đối xứng đã tạo nên không khí vui tươi, bình yên, êm đềm của mái ấm gia đình đầm ấm, hạnh phúc. => 4 câu thơ đầu với lời thơ giản dị như một lời tâm tình thủ thỉ mà Y Phương muốn nhắn nhủ tới con, rằng gia đình chính là cội nguồn, là nơi sinh thành và nuôi dưỡng con từ những bước chân đầu tiên. Chính vì vậy, trên hành trình vạn dặm của con về sau, con không được phép quên công lao dưỡng dục của cha mẹ Song song với gia đình là quê hương, là nơi con sinh ra, nơi gia đình con thuộc về. Nhờ có quê hương con mới khôn lớn và trưởng thành như ngày hôm nay “Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng.” – Tác giả sử dụng cụm từ “người đồng mình” để thể hiện lối nói đặc trưng của người vùng cao về quê hương hay người đồng hương cho thấy ngay cả trong thơ, tác giả vẫn đem đến nét đặc trưng riêng của dân tộc mình – Cách giới thiệu “người đồng mình” đi liền với ngôn ngữ hô gọi “con ơi” đã giúp lời tâm sự giữa hai cha con trở nên thật trìu mến và thân thương Kết hợp ngôn ngữ thân thuộc và hệ thống hình ảnh đã gợi ra nhiều ý nghĩa – “Đan lờ cài nan hoa” là hình ảnh tả thực công cụ lao động thô sơ, đã được “người đồng mình” trang trí và trở nên đẹp đẽ. Chi tiết này đã thể hiện sự cần cù, tài hoa và sáng tạo của người dân nơi quê hương tác giả. Họ có thể khiến cho những nan nứa, nan tre đơn sơ, thô mộc trở thành những “nan hoa” trang trí. – “Vách nhà ken câu hát” là hình ảnh tả thực lối sinh hoạt trong văn hóa cộng đồng người Tày. Những “vách nhà” có thêm hát si, hát lượn đã gợi ra một thế giới tâm hồn tràn đầy lạc quan của cộng đồng người miền cao. Đây là một trong những ý quan trọng và không thể thiếu trong phân tích tác phẩm Nói với con mà các em học sinh cần lưu ý. – Sử dụng loạt động từ “cài”, “ken”, tác giả vừa miêu tả sự khéo léo trong các động tác lao động vừa nói lên sự gắn bó khăng khít của những “người đồng mình” trong cuộc sống thường nhật cũng như trong lao động Tác dụng của biện pháp nghệ nhân hóa trong câu thơ – Phép nhân hóa “Rừng cho hoa” miêu tả vẻ đẹp của những rừng hoa mà thiên nhiên mà quê hương ban tặng cho người dân nơi đây. Phép nghệ thuật còn tô điểm thêm cho sự giàu có và hào phóng của thiên nhiên miên cao – Phép nhân hóa “Con đường cho những tấm lòng” được dùng để miêu tả những con đường dẫn về nhà, về bản. Từ đó, gợi ra tấm lòng, tình cảm của những “người đồng mình” với mái ấm gia đình, với quê hương, xứ sở – Ngoài ra, điệp từ “cho” đã thể hiện tấm lòng rộng mở, hào phóng của thiên nhiên, sẵn sàng ban tặng cho con người tất cả những gì đẹp nhất, tuyệt vời nhất của đất trời => Ý nghĩa của câu thơ chính là lời nhắc nhở của người cha dành cho con. Rằng nếu như gia đình là cội nguồn, là nơi con sinh ra và dưỡng dục con, thì quê hương đã nuôi dưỡng tâm hồn và che chở cho con bằng văn hóa tốt đẹp trong suốt hành trình trưởng thành. Cuối cùng, tác giả tâm sự cho con nghe về kỉ niệm hạnh phúc nhất của cha mẹ. Đó cũng là cội nguồn để có con của ngày hôm nay “Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.” – Tác giả “Nhớ về ngày cưới” cũng là nhớ về những kỷ niệm đánh dấu sự khởi đầu của một gia đình. Và con chính là minh chứng cho kết tinh của tình yêu đẹp đẽ giữa cha và mẹ – Với tác giả “Ngày đầu tiên đẹp nhất” có thể là ngày cưới và cũng có thể là ngày đầu tiên con cất tiếng khóc chào đời => Khổ thơ đầu bài thơ Nói với con là lời dặn dò, nhắn nhủ của người cha khi tâm sự với con. Cha nhắc con luôn phải nhớ và biết ơn về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng của mình. Đó chính là gia đình của con, là quê hương – những nền tảng cốt lõi tạo ra bước đệm giúp con khôn lớn và trưởng thành. Vì vậy, con luôn phải sống bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào. 2. Phân tích khổ thơ 2 bài thơ Nói với con – Đề cao những phẩm chất cao quý của người đồng mình và mong con tiếp nối truyền thống cao đẹp đó “Người đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con.” a. Phẩm chất cao quý của người đồng mình Khi tâm tình về cội nguồn gia đình và quê hương, người cha đã khéo léo nhắc đến những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình “Người đồng mình thương lắm con ơi! Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn” – Sử dụng lối nói thân thuộc, gần gũi của người vùng cao “người đồng mình” đã giúp tạo lên không khí thân thương, tình cảm thân thiết giữa người trong một gia đình. – Sử dụng động từ “thương” kết hợp với từ chỉ mức độ “lắm”, tác giả đã bộc lộ sự đồng cảm với những nỗi vất vả, những khó khăn mà con người quê hương đã phải trải qua Sử dụng từ ngữ giàu sức gợi như tính từ “cao”, “xa” có tác dụng – Gợi tả sinh động bức tranh khung cảnh miền cao với những dãy núi cao, trùng điệp, thiên nhiên hùng vĩ – Việc sắp xếp những tính từ này theo trình tự tăng tiến đã gợi liên tưởng đến những khó khăn chồng chất, thử thách ý chí của “người đồng mình” – Thay vì sử dụng những tính từ định lượng, tác giả sử dụng linh hoạt hình ảnh mang tư duy của người miền núi khi lấy cái cao của trời, của núi để đo đếm nỗi buồn; lấy cái xa của đất để đo ý chí của con người. Một cách sử dụng từ ngữ hết sức độc đáo => 3 câu thơ vừa để tôn vinh ý chí, nghị lực vươn lên của người đồng mình, vừa ngậm ngùi, xót xa trước đời sống còn nhiều những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào vùng cao. Từ phẩm chất của người đồng mình, Y Phương tiếp tục nói với con về ý chí và vẻ đẹp truyền thống của người vùng cao “Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục.” Sử dụng nghệ thuật tương phản giữa “thô sơ da thịt” và “chẳng mấy ai nhỏ bé” – Cụm từ “thô sơ da thịt” góp phần miêu tả chân thực những đặc điểm về vóc dáng, hình hài nhỏ bé đặc trưng của “người đồng mình”. – Trái lại, cụm từ “chẳng mấy ai nhỏ bé” lại gợi ra ý chí, nghị lực phi thường, luôn sẵn sàng vượt lên hoàn cảnh, bất chấp khó khăn, thiếu thốn do vị trí địa lý mang lại => Nghệ thuật tương phản trong hai câu thơ liên tiếp đã giúp tôn vinh “tầm vóc”, “vóc dáng” của “người đồng mình”. Tuy họ “thô sơ da thịt” nhưng họ chưa bao giờ biết yếu đuối. Hình ảnh thơ “tự đúc đá kê cao quê hương” mang nhiều lớp ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc – Nghĩa tả thực miêu tả thực tế quá trình dựng nhà, dựng bản nơi quê hương tác giả. Những ngôi nhà được kê trên những tảng đá lớn nhằm tránh mối mọt. – Nghĩa ẩn dụ ẩn dụ ngầm nhắc đến tinh thần tự lực cánh sinh của người đồng mình. Họ đã tự mình dựng xây và nâng tầm quê hương bằng chính đôi bàn tay khéo léo và tài hoa của mình – Trong quá trình nâng tầm quê hương đó cũng chính họ là người tạo nên phong tục, bản sắc => Câu thơ là sự tự hào của tác giả về những phẩm chất cao quý của người dân quê hương. Từ đó, tác giả răn dạy con phải biết tiếp nối, kế thừa và phát huy những nét đẹp trong văn hóa và phẩm chất của người đồng mình b. Lời khuyên nhủ mà người cha nhắn tới con Tác giả nhắc nhở con nên biết sống và tiếp nối theo những giá trị truyền thống tốt đẹp của người đồng mình “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc” – Sử dụng điệp từ “sống” lặp lại liên tiếp 3 lần đã giúp tô đậm được mong ước lớn lao mà người cha dành cho con Sử dụng hình ảnh ẩn dụ và phép liệt kê những khó khăn của người đồng mình như “đá gập ghềnh” và “thung nghèo đói” có tác dụng – Gợi cho người đọc tưởng tượng ra một khu vực sống khắc nghiệt với địa hình hiểm trở, khó khăn cả trong làm ăn lẫn canh tác – Từ sự khó khăn về địa lý dẫn đến những khó khăn trong đời sống. Cuộc sống người đồng mình luôn nhiều vất vả, gian khó và đói nghèo chồng chất => Từ đó, cha mong muốn ở con sau này lớn lên hãy biết yêu thương, gắn bó và trân trọng quê hương mình cho dù còn nhiều khó khăn, hiểm nghèo Sử dụng hình ảnh so sảnh “Sống như sông như suối” – Nói lên cuộc sống bình dị, hòa hợp với thiên thiên của người đồng mình – Nói lên lối sống trong sáng, phóng khoáng với tình cảm dạt dào như sông, như suối => Từ đó, người cha mong ước con mình sau này sẽ sống với một tâm hồn phóng khoáng hòa hợp với thiên nhiên – Thủ pháp đối giữa hai hình ảnh “lên thác” và “xuống ghềnh” đã giúp người đọc liên tưởng về một cuộc sống lam lũ, nhọc nhằn, vất vả của người dân quê hương tác giả => Vì vậy, người cha mong con sau này phải biết đối mặt và vươn lên, làm chủ sức mạnh bản thân cho dù phải đối mặt với bao khó khăn, mệt mỏi. => Đoạn thơ chính là lời khuyên của cha dành con, rằng hãy tiếp nối tình cảm ân nghĩa, chung thủy với mảnh đất nơi mình sinh ra, tiếp nối cả những ý chí, nghị lực và lòng kiên cường của người đồng mình 4 câu thơ khép lại bài thơ là lời dặn dò ân cần, trìu mến và nghiêm khắc của người cha “Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ được nhỏ bé Nghe con” – Hai tiếng “lên đường” ngắn gọn, súc tích cho thấy trong con mắt của cha, người con đã khôn lớn, đã trưởng thành nhưng hoàn toàn có thể tự tin, tự lực vững bước trên đường đời – Hình ảnh thơ “thô sơ da thịt” được lặp lại như một lời khẳng định, mục đích khắc sâu trong tâm trí con rằng con trưởng thành mấy thì vẫn là người đồng mình, mang hình hài, vóc dáng và dòng máu người đồng mình – Tuy nhỏ bé về vóc dáng nhưng “không bao giờ được nhỏ bé” trong cuộc sống. Thay vào đó hãy kiên cường, giàu bản lĩnh để sẵn sàng đương đầu với những gian khó của cuộc đời – Hai tiếng “nghe con” thiết tha đã thay cho lời kết đầy xúc động, đồng thời ẩn chứa biết bao mong muốn của người cha. => Với một giọng điệu thiết tha, trìu mến, người cha đã gửi gắm những lời tâm tình sâu sắc và cho con những bài học quý giá, cho con sức mạnh và triết lý sống để con mãi mãi khắc ghi trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tham khảo thêm Soạn văn 9 III. Tổng kết chung phân tích bài thơ Nói với con 1. Về nội dung Qua bài thơ “Nói với con”, Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình, đồng thời ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Bài thơ là lời tâm sự, trò chuyện của người cha dành cho con ngay từ khi còn nhỏ. 2. Về nghệ thuật – Bằng thể thơ tự do, phóng khoáng kết hợp cùng cảm xúc chân thành, mộc mạc đã khiến lời thơ trở nên ấm áp và thân thiết. – Cách sử dụng hình ảnh và ngôn từ mang đặc trưng trong lối nói, diễn đạt và tư duy của người vùng cao, tạo nên sự gần gũi, thân thương – Bài thơ với giọng điệu thơ thay đổi khi tâm tình, khi mạnh mẽ, nghiêm khắc, tạo sự dẫn dắt hợp lý trong mạch cảm xúc, rất phù hợp với lời khuyên của cha nói với con mình. Trên đây là toàn bộ nội dung phân tích bài thơ Nói với con của tác giả Y Phương mà HOCMAI đã tổng hợp để gửi đến các bạn học sinh đang trong quá trình ôn thi vào 10. Mong rằng những nội dung trên đã giúp các bạn hiểu hơn về bài thơ, nắm vững kiến thức trước khi bước vào kỳ thi chính thức. Chúc các bạn có khoảng thời gian ôn thi thật hiệu quả! Tham khảo thêm Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác
TT&VH Online – Đến gặp nhà thơ Y Phương, tác giả của bài thơ “Nói với con” SGK lớp 9 tại nhà riêng của ông, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên với nhà thơ người dân tộc Tày này. Cánh cửa nhà mở toang, vọng ra tiếng ông đang ngâm một bài thơ tiếng Tày đầy sảng khoái. Khi chúng tôi tới, ông vừa gò lưng lau nhà vừa hát thơ. Ngẩng đầu lên, ông tươi cười, thay cho lời chào đáp lại ông nói“nghề chính của tôi là tạp vụ, có nghề phụ làm thơ.” * Đó là lúctôi dường như không biết lấy gì để vịn! Sốngtrên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc” Vợ chồng chúng tôi sinh cô con gái đầu lòng vào giữa năm 1979. Bài thơ “Nói với con” tôi viết năm 1980. Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn. Thời kỳ cả nước mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ lâu dài và gian khổ. Giống như một người mới ốm dậy, xã hội khi ấy bắt đầu xuất hiện người tốt, kẻ xấu để tranh giành sự sống. Thực ra, theo tôi không có con người xấu, mà chỉ có những tính xấu như trộm cắp, tham nhũng, lừa đảo, sự dối trá…Ta phải biến những cái xấu ấy thành “phân”, để “bón” cho cây cối và làm giàu cho đất cát. Bài thơ với nhan đề là “Nói với con”, đó là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lý do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa. Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời. Người đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con. “Tôi là người dân tộc Tày. Chúng tôi sinh hoạt như những người Tày ngay giữa lòng Thủ đô…” Bài thơ 28 câu này được xem như là viết riêng cho đứa con đầu lòng. Ở phạm vi hẹp, bài thơ chủ yếu đề cập đến văn hóa dân tộc, nhằm tôn vinh nét đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc Tày. Tôi rất bất ngờ khi biết “Nói với con” được đưa vào SGK. Tuy nhiên tôi không biết đích xác đưa vào năm nào. Quan trọng là tác phẩm của tôi đã được đông đảo các em học sinh đón nhận. Với những tác phẩm trong SGK, việc cải cách liên tục như hiện nay thì một tác phẩm nay “để”, mai “bóc” chuyện bình thường. Vì thế phần thưởng lớn nhất dành cho tôi là được mọi người biết đến, nhớ đến tác phẩm của mình. * Nhiều giáo viên và học sinh đã đến nhà nhờ giảng về bài thơ Bài thơ “Nói với con”, dù thấy chẳng có gì đặc biệt hay, nhưng cũng khiến nhiều người băn khoăn . Chẳng hạn trong bài thơ có hai câu “Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con” Đấy là hai câu chốt của bài thơ “Nói với con”. Thế nhưng, nhiều giáo viên dường như chưa hiểu hàm ý của hai câu thơ. Nên khi giảng bài, họ chỉ dựa vào hướng dẫn trong SGK là chính. Thực ra, theo tác giả, ý nghĩa của bài thơ khác hơn nhiều. Nó cao và sâu hơn câu chuyện về tình phụ tử. Chúng ta đừng viện cớ thiếu thốn khó khăn mà đánh mất đạo đức, văn hóa. Tôi thấy, dường như giờ đây, nhiều con em các dân tộc không mấy mặn mà với văn hóa truyền thống. Và họ đang tự nguyện nhập ngoại, lai căng một cách dễ dãi. Tôi ủng hộ hòa nhập nhưng không thể hòa tan. Văn hóa dân tộc là tài sản lớn. Giữ cho mình và giữ cho con cháu mình. Tôi là người dân tộc Tày. Chúng tôi sinh hoạt như những người Tày ngay giữa lòng Thủ đô. Không phải do tôi sợ đánh mất bản bản sắc riêng mà là niềm tự hào chính đáng về văn hóa dân tộc của mình. Tôi tự hào vì tôi là người Tày. Nhà thơ Y Phương Có lần, một cậu bé ở tận trong Huế lặn lội ra Hà Nội, tìm đến nhà và hỏi chuyện tôi về bài thơ. Hình như cậu bé chuẩn bị thi vào trường quốc học Huế. Đúng vậy. Cậu học trò ấy đã chọn bài thơ “Nói với con” để làm bài thi môn văn. Và cậu ấy đã đỗ thủ khoa. Một số giáo viên ở trường chuyên ở các tỉnh, cũng đích thân tới tận nhà gặp và hỏi trực tiếp tôi về bài thơ “Nói với con”. Bài thơ mà mọi người hay băn khoăn thắc mắc nhất là hai câu “Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ” nghĩa là sao? Tôi bật cười, cái đó thì quá đơn giản. Có gì đâu, đứa con sinh ra thì phải có cha có mẹ. Đó là khởi điểm của một con người. Một điều nữa “vách nhà ken câu hát” làyếu tố văn hóa phi vật thể. Người con trai ngồi ngoài vách. Người con gái ở bên trong vách. Họ hát cho nhau nghe. Hát tràn đêm đến sáng bạch. Bởi thế, bức vách ở đây không chỉ là một bức vách cụ thể bằng đất bằng đá nữa. Nó đã trở thành một chủ thể văn hóa. Văn hóa ăn nhau ở sự khác biệt chứ không nói sự hơn kém. Câu chuyện với nhà thơ người Tày Y Phương tưởng như không thể dứt ra được. Từ chuyện ông ước mơ đi học các phép thuật để làm thầy tào; chuyện ông đi “buôn lậu” đến những quan niệm của ông về làm thơ. Mời các bạn đón đọc kỳ sau. Yên Khương
thể thơ nói với con