Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa ban hành Công văn số 3921/SNN-QLCL ngày 6-11-2020 hướng dẫn thành phần hồ sơ và trình tự thủ tục xin chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác; trong đó nêu rõ về thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, thành
Hồ Sơ Xin Quyết Định Giao Đất.doc .pdf .xls .ppt .txt và hàng tỷ văn bản, tài liệu, học liệu, sách, được tải xuống miễn phí trên toàn thế giới. - Sử dụng bộ lọc để lựa chọn định dạng file theo nhu cầu. Giải Quyết Tai Nạn Giao Thông Đường Thủy Do Bộ Quyết
Theo chị trình bày, năm 1996 ba chị có thửa đất và được nhà nước cấp sổ đỏ, sau đó năm 2003 đã cắt cho chị một phần để làm nhà và chị cũng đã xin cấp giấy chứng nhận đối với diện tích được ba chị cắt.Tuy nhiên đến năm 2008, người có thửa đất liền kề đã xin cấp Giấy chứng nhận và kiện chị lấn đất. Vậy phải giải quyết như thế nào?
Theo quy định của Luật đất đai năm 2003 thì trước khi thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư.
Đất xây dựng trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp là quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai được ghi nhận lần đầu tiên tại Luật đất đai 2003 và tiếp tục kế thừa ở Luật Đất đai 2013. Theo Điều 147 Luật Đất đai 2013: Đất xây dựng trụ sở cơ quan, công trình
Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd Nợ Xấu. LSVN – So với Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Đất đai năm 2013 có nhiều điểm mới trong quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai trên thực tiễn, Luật Đất đai năm 2013 cũng bộc lộ một số bất cập trong công tác thu hồi đất, nhất là các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất. Luật sư Nguyễn Đức Hùng, Hãng luật TGS, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội. Thực tế cho thấy, thu hồi đất là một trong những vấn đề nóng bỏng, gây ra nhiều bức xúc, tranh chấp khiếu kiện nhất hiện nay. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng là do người dân không được đền bù thỏa đáng trong công tác đền bù giải tỏa, giải phóng mặt bằng và các quy định của pháp luật đất đai về trình tự, thủ tục thu hồi đất qua các thời kỳ còn chưa cụ thể, nằm rải rác trong nhiều văn bản. Chính vì vậy, Luật Đất đai năm 2013 ra đời đã khắc phục được một phần những hạn chế còn tồn đọng tại các văn bản luật trước đây, đảm bảo tính thống nhất, ổn định trong quá trình áp dụng, cụ thể tại Điều 69 đã quy định chi tiết về trình tự, thủ tục thu hồi đất đai như sau - Lập, phê duyệt kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm; - Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi đất ban hành thông báo thu hồi đất. Thông báo này phải được gửi đến từng người có đất bị thu hồi và phải thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở của Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi; - Ủy ban nhân dân cấp xã cùng với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện quy trình kiểm đếm xác định thiệt hại. Trường hợp người sử dụng đất không phối hợp thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người sử dụng đất thực hiện. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được vận động, thuyết phục mà người sử dụng đất không phối hợp thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định kiểm đếm bắt buộc. Nếu người sử dụng đất không chấp hành thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện ban hành quyết định cưỡng thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc và tổ chức thực hiện cưỡng chế theo quy định tại Điều 70 của Luật Đất đai năm 2013; - Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và cùng với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi tổ chức lấy ý kiến của người dân và niêm yết công khai phương áp bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; - Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong cùng một ngày; - Tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt và bàn giao đất. Trường hợp người sử dụng đất không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người có đất thu hồi thực hiện. Nếu không chấp hành thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện sẽ ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Một số bất cập về trình tự, thủ tục thu hồi đất So với Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Đất đai năm 2013 có nhiều điểm mới trong quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai trên thực tiễn, Luật Đất đai năm 2013 cũng bộc lộ một số bất cập trong công tác thu hồi đất, nhất là các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất, cụ thể như sau Thứ nhất, quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất rải rác ở nhiều văn bản cả luật, nghị định, thông tư. Hiện nay, các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật cụ thể quy định tại Điều 67, 69, 70, 71 và 93 Luật Đất đai năm 2013; Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP; Điều 28 và 30 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP; Điều 13 Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT và tại các văn bản của địa phương như Quyết định về bảng giá đất, Quyết định quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất,… Việc quy định rải rác ở nhiều văn bản pháp luật sẽ gây khó khăn cho người dân trong việc tìm hiểu, nắm rõ các quy định của pháp luật và khiến cho cơ quan có thẩm quyền áp dụng sai lệch, không đồng nhất giữa các tỉnh, thành phố. Thứ hai, trình tự, thủ tục thu hồi đất không quy định bước ghi nhận hiện trạng khu đất bị thu hồi tại thời điểm thông báo thu hồi đất. Theo khoản 2 Điều 92 Luật Đất đai năm 2013 quy định tài sản gắn liền với đất được tạo lập từ sau khi có thông báo thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì không được bồi thường. Vì vậy, việc ghi nhận hiện trạng khu đất thu hồi tại thời điểm thông báo thu hồi đất có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bồi thường tài sản gắn liền với đất, đặc biệt là cây trồng, vật nuôi, những tài sản mà việc tạo lập không cần khai báo, đăng ký. Quy định thủ tục này góp phần ngăn chặn tình trạng cố tình tạo lập tài sản đón đầu thu hồi đất để được bồi thường và có căn cứ chặt chẽ trong giải quyết thắc mắc, khiếu nại khi giải phóng mặt bằng. Thứ ba, việc cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc chưa được quy định chặt chẽ, thiếu đồng bộ. Cụ thể, việc kiểm đếm là một khâu rất quan trọng trong thủ tục thu hồi đất, sự chính xác trong công tác kiểm đếm là tiền đề để xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ thỏa đáng cho người dân bị thu hồi đất. Hiện nay, ngoài Điều 70 Luật Đất đai năm 2013 quy định về cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc thì không có bất kỳ một văn bản nào hướng dẫn thi hành trong khi công tác cưỡng chế thi hành quyết định kiểm đếm bắt buộc cũng không kém phần phức tạp so với việc cưỡng chế thu hồi đất. Luật Đất đai năm 2013 chỉ quy định chủ thể ban hành quyết định cưỡng chế mà không quy định rõ chủ thể nào có trách nhiệm thực hiện việc tổ chức cưỡng chế nên đã gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền triển khai trên thực tế. Đồng thời, trình tự, thủ tục thực hiện quyết định cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc được quy định tại khoản 4 Điều 70 Luật Đất đai 2013 chưa được quy định cụ thể và chặt chẽ. Không quy định một cách cụ thể thời gian bao lâu sau khi đã vận động, thuyết phục, đối thoại thì sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành; quy trình tiến hành tại buổi cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm như thế nào, phương án cưỡng chế, nhiệm vụ của các thành viên tham gia cưỡng chế, biên bản cưỡng chế,… Vì vậy, đã dẫn đến tình trạng áp dụng khác nhau giữa các tỉnh, thành phố và có trường hợp thiếu thành phần dẫn đến kiếm đếm sai, gây khó khăn trong việc xây dựng phương án bồi thường hỗ trợ. Trên cơ sở một vài bất cập trong quy định pháp luật kể trên, cần có những thay đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện quy định pháp luật để giải quyết được các vấn đề còn tồn đọng. Từ đó, xây dựng được một quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất công khai, minh bạch, thống nhất, đảm bảo và hài hòa được lợi ích giữa Nhà nước và người có đất bị thu hồi. Đồng thời, tạo ra được hành lang pháp lý vững chắc giúp các nhà thực thi dễ dàng trong việc thực hiện quá trình thu hồi đất, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, mang lại được nhiều lợi ích tốt đẹp cho dân tộc. Luật sư NGUYỄN ĐỨC HÙNG Hãng luật TGS, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội Đòi nợ trái pháp luật hay là tội 'Cướp tài sản'?
Nhà nước thu hồi đất cho tư nhân thực hiện công trình giáo dục, y tế...? Theo Báo cáo của Chính phủ, tiếp thu các ý kiến góp ý của Nhân dân, Điều 79, dự thảo Luật Đất đai sửa đổi đã được sửa đổi toàn bộ theo hướng Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng nhằm phát huy nguồn lực đất đai, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại, thực hiện chính sách an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và bảo tồn di sản văn hóa. Quy định cụ thể các trường hợp thu hồi đất đối với các loại công trình công cộng từng lĩnh vực; thu hồi đất để xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, công trình sự nghiệp và một số trường hợp thật cần thiết khác. Đồng thời, rà soát làm rõ hơn các trường hợp Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng - an ninh tại Điều 78; các trường hợp thu hồi đất do vi phạm để phù hợp với quy định của pháp luật có liên quan, như Luật Đầu tư, các luật về thuế, làm rõ hành vi của cơ quan quản lý hoặc của người vi phạm tại Điều 81. Quang cảnh thảo luận tại tổ Đoàn ĐBQH các tỉnh Phú Thọ, Quảng Nam, Đắc Nông, Trà Vinh. Ảnh Quang Khánh “Quy định cụ thể các trường hợp thu hồi đất như vậy sẽ bảo đảm tính minh bạch trong thực hiện”. Khẳng định điều này, ĐBQH Nguyễn Trường Giang Đắk Nông đề nghị, cần rà soát kỹ các trường hợp sẽ được thu hồi đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Đặc biệt, cần rà soát lại các trường hợp thu hồi đất để xây dựng công trình sự nghiệp thuộc cơ sở y tế, cơ sở dịch vụ xã hội; cơ sở giáo dục, đào tạo; cơ sở thể dục thể thao được quy định tại Điều 79. “Bản chất đây là những dịch vụ công, nhưng hiện nay chúng ta đã xã hội hóa, nên có hợp lý không khi tiến hành thu hồi đất để cho tư nhân làm một nhà trẻ, trường mẫu giáo hay các cơ sở giáo dục, y tế khác? Tương tự, với thu hồi đất để xây dựng cơ sở thể dục, thể thao, nếu là cơ sở do Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập thành lập ra, thuê đất xây dựng công trình này thì sẽ khác; nhưng nếu do tư nhân xây dựng cũng đặt vấn đề thu hồi đất để phục vụ lợi ích công cộng, thì tôi thấy không hợp lý”, đại biểu Nguyễn Trường Giang thẳng thắn. Nhiều ĐBQH cho rằng, cần rà soát Điều 80, dự thảo Luật, về điều kiện thu hồi đất vì mục đích quốc phòng - an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng bảo đảm tuân thủ quy định tại khoản 3, Điều 54, Hiến pháp năm 2013. Theo ĐBQH Nguyễn Thành Nam Phú Thọ, không chỉ yêu cầu xác định các trường hợp thu hồi phải được quy định trong Luật gắn với mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, mà các trường hợp đó phải là trường hợp “thật cần thiết”. Một số ý kiến đề nghị, nghiên cứu bổ sung quy định điều kiện về nguồn lực, tình hình địa phương trong từng thời kỳ để thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất. Kiểm soát chặt việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng Điều 122, dự thảo Luật Đất đai sửa đổi đã thể chế hóa mạnh mẽ tư tưởng phân cấp, phân quyền từ Trung ương xuống địa phương. Cụ thể, phân cấp cho HĐND cấp tỉnh chấp thuận việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên trước khi UBND cùng quyết định bằng văn bản để thực hiện. Đồng thời, dự thảo Luật cũng giao Chính phủ quy định về điều kiện, tiêu chí, chế tài để kiểm soát chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng các loại đất này. Pháp luật hiện hành quy định chặt chẽ việc quản lý việc chuyển mục đích sử dụng các loại đất này đất lúa nước, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ quy mô trên 20 ha, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên phải được Chính phủ chấp thuận bằng văn bản. Trích dẫn quy định này, ĐBQH Hà Sỹ Đồng Quảng Trị nêu vấn đề, việc tập trung quản lý quá mức ở Trung ương như hiện nay cho thấy nhiều hệ lụy về phân cấp, phân quyền, chưa phát huy được sự sáng tạo của địa phương, giảm hiệu quả về tính cơ hội, tăng chi phí xã hội và chưa quán triệt tư tưởng cải cách nền hành chính nhà nước. Tuy vậy, đại biểu Hà Sỹ Đồng nhận thấy, sự cần thiết quản lý các loại đất này trong thời gian qua cũng xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn, giảm thiểu tác động có tính cục bộ, lợi ích, địa phương mà thiếu cân nhắc tới cân đối tổng thể, bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các địa phương, khu vực và phát triển bền vững quốc gia. Ở góc độ nhất định, nó cũng xuất phát từ trình độ quản lý của chúng ta và phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực ngay từ sớm. Với cách tiếp cận vấn đề như vậy, đại biểu Hà Sỹ Đồng đề nghị, cần tăng cường phân cấp với việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên là phù hợp với đòi hỏi thực tiễn, song cũng không nên chuyển đổi theo hướng “buông” việc này cho địa phương. Thực tế cho thấy, khi phân cấp quản lý như vậy, thì những hệ lụy đã xảy ra sẽ khó trách khỏi, ngay cả khi chúng ta đã tăng cường thể chế pháp lý. Do đó, đại biểu Hà Sỹ Đồng đề nghị, tại dự thảo Luật vẫn nên quy định, Chính phủ chấp thuận chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng với dự án sử dụng đất trồng lúa trên 10 ha, đất rừng đặc dụng trên 20 ha, đất rừng phòng hộ trên 50 ha, đất rừng sản xuất trên 200 ha. Đối với các dự án có quy mô sử dụng đất nhỏ hơn, phân cấp cho địa phương như quy định tại Điều 122, dự thảo Luật, đồng thời cũng cần bổ sung quy định việc chia nhỏ các dự án có chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên để “lách luật”, giữ lại thẩm quyền ở địa phương. Cùng mối quan tâm, ĐBQH Nguyễn Thị Lan TP. Hà Nội đề nghị, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự thảo Luật theo hướng quy định chặt chẽ hơn về điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp, trong đó, có tính đến đặc thù các loại đất thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng. Phân biệt giữa đối tượng nhận chuyển nhượng là “tổ chức” với đối tượng nhận chuyển nhượng là “cá nhân” không trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ, phòng ngừa việc lợi dụng quy định này để đầu cơ đất nông nghiệp, ảnh hưởng đến mục tiêu chính sách. ĐBQH Ngô Chí Cường Trà Vinh cũng chỉ rõ, với quy định khoản 30, Điều 2 và khoản 55, Điều 2, Nghị định số 01/2017/NĐ-CP của Chính phủ cũng như quy định tại Điều 56, Luật Đất đai hiện hành về cho thuê đất đang khiến cá nhân khi thành lập doanh nghiệp hay đưa đất nông nghiệp vào doanh nghiệp để thực hiện dự án sản xuất, kinh doanh đều phải chuyển mục đích sử dụng đất và sử dụng đất với hình thức thuê lại đất của Nhà nước. Do vậy, nhiều cá nhân, hộ gia đình đang sử dụng đất ổn định không muốn thành lập doanh nghiệp. Nguyên nhân của thực trạng nêu trên, theo đại biểu Ngô Chí Cường, với quy định hiện hành, họ sẽ phải giao phần đất đó cho nhà nước, sau đó phải thuê lại chính phần đất họ có quyền sử dụng đất dài hạn trước đây để thực hiện dự án sản xuất, kinh doanh của mình. Do vậy, đại biểu Ngô Chí Cường đề nghị, cần rà soát, hoàn thiện thêm các quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức trong nước sử dụng đất tại Mục 3, Chương III của dự thảo Luật để có thể điều chỉnh vấn đề này ngay trong luật, không nên để Chính phủ hướng dẫn bằng nghị định như trước đây. Có thể thấy, với sự khẩn trương nghiên cứu, tiếp thu nhiều ý kiến của Nhân dân, đại biểu Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, dự thảo Luật Đất đai sửa đổi sau khi tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện và trình Quốc hội tại Kỳ họp lần này đã có bước tiến quan trọng về chất lượng. Tuy nhiên, theo các đại biểu Quốc hội tham dự các phiên họp tổ sáng nay, cũng còn một số vấn đề nảy sinh trong thực tiễn cần tiếp tục rà soát, phân tích kỹ lưỡng, bảo đảm hoàn thiện dự thảo Luật với chất lượng cao nhất, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, cũng như mong mỏi, yêu cầu của cử tri và người dân về đạo luật quan trọng này.
trình tự thu hồi đất theo luật đất đai 2003